
Tấm lòng của Bác Hồ với phụ nữ
Sinh thời Bác Hồ luôn quan tâm và đánh giá cao vị trí vai trò của phụ nữ trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Bác từng nhấn mạnh: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ, làm cách mạng mà không giải phóng phụ nữ thì mới giải phóng một nửa thế giới và chỉ làm cách mạng giải phóng dân tộc để có độc lập dân tộc thì phụ nữ mới được giải phóng”.
Khi đất nước đắm chìm trong đêm trường nô lệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm, chú ý đến người phụ nữ. Bởi phụ nữ là lớp người khổ nhất trong những “người cùng khổ”. Họ không những phải chịu đựng nỗi đau của một người dân mất nước, bị tước đoạt hết các quyền tự do, dân chủ mà còn bị ngược đãi, chà đạp lên cả phẩm giá con người. Người căm ghét bọn thống trị đã "đối xử một cách hết sức bỉ ổi với người phụ nữ, xúc phạm tới phong hóa, trinh tiết và đời sống của họ".
Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bản chất của thực dân Pháp đó là chế độ “ăn cướp và giết người”, “hãm hiếp đàn bà và trẻ nhỏ”. Người đã tố cáo những hành động phi nhân tính của bọn thực dân xâm lược đối với phụ nữ: "Một người Âu mắng phụ nữ An Nam là con đĩ, con bú dù là một việc thông thường. Ngay giữa chợ Bến Thành ở Sài Gòn... bọn gác chợ người Âu cũng không ngần ngại dùng roi gân bò, dùi cui đánh người phụ nữ bản xứ bắt họ tránh không làm nghẽn lối đi"
Xuất phát từ lòng nhân ái bao la và sự đồng cảm sâu sắc với nỗi đau khổ tột cùng mà người phụ nữ phải gánh chịu dưới chế độ thực dân, phong kiến nên Hồ Chí Minh luôn đặt ra yêu cầu bức thiết phải giải phóng “nửa thế giới” khỏi “xiềng xích nô lệ”. Người xác định: “Phụ nữ chiếm một nửa tổng số nhân dân. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải thật sự giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ”.
Đây chính là một trong những động lực giúp Người vượt qua mọi khó khăn, thử thách để cùng với toàn Đảng và toàn dân ta lật đổ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm thực hiện “nam nữ bình quyền”.
Ngay trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày mồng 6 tháng 01 năm 1946, Người vui sướng nhận ra rằng "Phụ nữ là tầng lớp đi bỏ phiếu hăng hái nhất". Sau khi đã trở thành Chủ tịch nước, mặc dầu bận trăm công ngàn việc nhưng Bác vẫn luôn giành cho các thế hệ phụ nữ Việt Nam sự quan tâm, yêu thương, tôn trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao vị trí, vai trò của người phụ nữ đối với tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong diễn ca "Lịch sử nước ta", Người đã khẳng định:"Phụ nữ ta chẳng tầm thường. Ðánh Ðông, dẹp Bắc làm gương để đời". Vì vậy, Người luôn tự hào: “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng… Phụ nữ Việt Nam là phụ nữ anh hùng”. Nhân kỷ niệm ngày khởi nghĩa Hai Bà Trưng và Quốc tế phụ nữ (8/3/1952), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư động viên, khen ngợi chị em phụ nữ. Cuối bức thư Người khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”.
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định phụ nữ là một trong những nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Tại Lễ kỷ niệm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1966), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc đến truyền thống yêu nước đầy tự hào của người Phụ nữ Việt Nam: “Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh giặc cứu nước, cứu dân, cho đến ngày hôm nay mỗi khi nước nhà gặp nguy nan, thì phụ nữ ta hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.Do đó ta có câu tục ngữ rất hùng hồn: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”.
Người đã thấu hiểu được sự vất vả, hy sinh thầm lặng của phụ nữ Việt Nam trong điều kiện chiến tranh ác liệt. Không những tham gia kháng chiến mà họ còn phải cáng đáng việc nhà để chồng con yên tâm đi đánh giặc. Ruộng nương, vườn tược, nhà cửa, chăm sóc nuôi dạy con cái, phụng dưỡng cha mẹ… đều đổ dồn lên đôi vai gầy yếu của các chị, các mẹ. Do đó nhân dân ta rất biết ơn các bà mẹ cả hai miền Nam, Bắc đã sinh đẻ và nuôi dạy những thế hệ anh hùng của nước ta. Ghi nhận những cống hiến to lớn của chị em trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thần thánh của dân tộc, Bác đã trao tặng cho phụ nữ Việt Nam 8 chữ vàng cao quý: “Anh hùng - Bất khuất- Trung hậu - Đảm đang”.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Người nhận thấy rằng phụ nữ có nhiều khả năng làm lãnh đạo, có nhiều phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo ở từ cơ sở đến trung ương, nhiều người rất giỏi, ưu điểm của cán bộ nữ là “ít mắc tệ tham ô, lãng phí, không hay chè chén, ít hống hách, mệnh lệnh như một số cán bộ nam”. Vì vậy Đảng, Chính phủ và các cấp, các ngành phải đặc biệt chú ý, cất nhắc phụ nữ vào đúng những vị trí, chức vụ phù hợp với khả năng để chị em có điều kiện phát huy năng lực của mình.
Trong di chúc, Bác viết “Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, phụ nữ vô cùng đảm đang, đã đóng góp rất nhiều trong chiến đấu và sản xuất. Đảng, Chính phủ cần có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ, phụ trách nhiều công việc kể cả lãnh đạo. Phụ nữ phải phấn đấu vươn lên, đây thực sự là một cuộc cách mạng”.
Trong những năm qua, không phụ lòng tin yêu và sự kỳ vọng của Bác, chị em phụ nữ cả nước đã ra sức học tập, rèn luyện, vươn lên khẳng định vai trò và vị thế của mình trong xã hội. Đảng và Nhà nước ta cũng luôn tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ, thông qua các chủ trương, chính sách về phụ nữ, về bình đẳng giới nhằm phát huy vai trò của phụ nữ. Không chỉ là những người vợ, người mẹ đảm đang trong gia đình, nhiều phụ nữ đã đạt được những thành tích nổi bật, được xã hội ghi nhận trong nhiều lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ…
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của chị em phụ nữ cả nước, công tác phụ nữ trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, xây dựng và phát triển đất nước. Ðể phong trào phụ nữ tiếp tục phát triển, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các cấp ủy đảng, chính quyền, các bộ, ban, ngành và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cần phối hợp, tạo điều kiện để phụ nữ có cơ hội cống hiến nhiều hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục phát huy truyền thống "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" trong thời kỳ mới, xứng đáng với tám chữ vàng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tặng phụ nữ Việt Nam.
Bác Hồ với thanh niên Việt Nam
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người rất coi trọng việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đoàn viên, thanh niên. Người thường xuyên động viên tuổi trẻ tu dưỡng đạo đức, không ngừng học tập vươn lên để xứng đáng là người chủ tương lai của nước nhà.
Hồ Chí Minh cho rằng thanh niên là lớp trẻ tuổi có hoài bão, ước mơ, giàu nghị lực và rất khao khát với lý tưởng cao đẹp, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn và lòng vị tha sâu sắc. Đó là một lứa tuổi đang ở thời kỳ sung sức, vươn lên đón nhận; lứa tuổi ham hiểu biết, khám phá, tự thể nghiệm mình, có khả năng tiềm ẩn trong việc thực hiện lý tưởng, niềm tin và mục tiêu cao quý của xã hội. Chính vì vậy, ngay từ thời còn trẻ tuổi, Người đã rất quan tâm đến Thanh niên. Và sau này, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người luôn luôn chăm lo giáo dục thanh niên, giao nhiệm vụ và từng bước dìu dắt họ tham gia đấu tranh cách mạng.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, Người đã nói: muốn thức tỉnh dân tộc, trước hết phải thức tỉnh thanh niên. Thanh niên trong tư tưởng của Người là lực lượng trẻ, khỏe, đông đảo trong xã hội; họ là “người chủ tương lai của nước nhà”. Vận mệnh nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh phần lớn là “do các thanh niên”. Người luôn đánh giá cao tiềm năng, vai trò cống hiến và có cái nhìn rất mới về thanh niên “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” (Thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường 9-1945); “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” (Thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp Tết Nguyên Đán năm 1946). Bởi theo Người, thanh niên là thời kỳ đẹp nhất, sôi động nhất như mùa xuân trăm hoa đua nở, tràn đày nhựa sống. Đó là hình ảnh nói lên sức trẻ có thể đào núi, lấp biển, mà cả dân tộc và xã hội luôn kỳ vọng, tin yêu.
Phát huy sức trẻ, tinh thần sẵn sàng: Đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên làm; phải đoàn kết chặt chẽ, kiên trì phấn đấu, vượt mọi khó khăn, thi đua học tập và lao động sản xuất, góp phần vào sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Người còn căn dặn “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. “Là người tiếp sức cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”. Do vậy, Người đặc biệt quan tâm tổ chức, bồi dưỡng đoàn viên thanh niên thành đội xung kích cách mạng, lực lượng hậu bị của Đảng nhằm kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp của giai cấp và dân tộc.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bên cạnh việc giáo dục trí lực, nâng cao trình độ chuyên môn, nắm vững khoa học kỹ thuật, mỗi đoàn viên, thanh niên cần phải thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa và gột rửa chủ nghĩa cá nhân. “Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì lợi ích cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không có lợi gì cho loài người”. Do vậy, đối với thế hệ trẻ, trước hết là đoàn viên, thanh niên phải luôn nỗ lực, rèn luyện đạo đức cách mạng: thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; sống trong sạch, có chí tiến thủ và đoàn kết, không kiêu ngạo; tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; phê phán những thói hư, tật xấu; thường xuyên tiến hành phê bình và tự phê; một lòng, một dạ phục vụ nhân dân, sẵn sàng xả thân cho đất nước… điều đó được thể hiện ở ngay trong suy nghĩ và hành động hàng ngày của mỗi đoàn viên, thanh niên.
Thấm nhuần và quán triệt tư tưởng của Người, Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao vai trò của đoàn viên, thanh niên. Coi đây là lực lượng xung kích, là đội dự bị tin cậy của Đảng và coi công tác thanh niên là vấn đề được đặc biệt quan tâm chỉ đạo. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn phụ thuộc vào lực lượng đoàn viên, thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên.
Do vậy, phải chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng - sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích…của đoàn viên, thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương Bác Hồ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tinh thần "Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên", tuổi trẻ cả nước đã phát huy truyền thống của thế hệ trước, hăng hái, sôi nổi hưởng ứng các cuộc vận động, các phong trào: "Xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc", "Đồng hành cùng thanh niên lập thân lập nghiệp", tích cực tham gia các diễn đàn: "Tuổi trẻ Việt Nam sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại", "Tiếp lửa truyền thống - Mãi mãi tuổi hai mươi", "Thanh niên sống đẹp sống có ích"…
Những tình cảm, sự quan tâm, chăm lo, dìu dắt của Bác Hồ dành cho đoàn viên, thanh niên luôn là nguồn động lực cổ vũ, khích lệ tuổi trẻ cả nước nói chung, tuổi trẻ Hoa Lư nói riêng hăng hái, xung kích cùng toàn dân xây dựng và phát triển đất nước vì mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Bác Hồ với Đảng bộ và Nhân dân Ninh Bình
Sinh thời, mặc dù rất bận rộn với biết bao công việc, Bác Hồ vẫn giành nhiều thời gian đi thăm, động viên và làm việc cụ thể với chính quyền địa phương các tỉnh, với bà con nông dân, với cán bộ, công nhân. Đối với Ninh Bình, từ Cách mạng Tháng Tám thành công đến lúc Bác đi xa, Đảng bộ và quân dân Ninh Bình vinh dự và tự hào 5 lần được đón Bác về thăm. Mỗi lần Bác về là một lần Bác giao cho nhân dân Ninh Bình những nhiệm vụ cụ thể phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước như: Đoàn kết lương - giáo, tăng gia sản xuất, diệt giặc đói, giặc dốt, xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, đoàn kết dân chủ, xây dựng củng cố hậu phương, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Đây là những vấn đề rất quan trọng của cách mạng Việt Nam nói chung và của Ninh Bình nói riêng, … những lời dặn dò, động viên, nhắc nhở của Bác đã tiếp thêm sức mạnh cho Đảng bộ, quân và dân tỉnh Ninh Bình có những bước phát triển mới, cán bộ, nhân dân thêm nhiều tiến bộ. Thời gian qua đi, song hình ảnh Bác Hồ kính yêu cùng những lời chỉ bảo ân cần và tình cảm của Người mãi mãi in đậm trong ký ức của cán bộ và nhân dân Ninh Bình.
Lần đầu tiên về Ninh Bình - ngày 13/1/1946, Bác thăm đồng bào Phát Diệm, Kim Sơn sau khi cách mạng mới thành công, Người đã nhắc nhở đồng bào: Kính Chúa phải yêu nước. Nước không được độc lập thì tôn giáo không được tự do. Bác thăm lớp huấn luyện của thanh niên ở đình thôn Thượng, xã Ninh Phúc, huyện Gia Khánh, dự buổi mít tinh với gần một vạn cán bộ và nhân dân tỉnh Ninh Bình tại khu vườn UBND tỉnh. Trong buổi tiếp các thân hào, nhân sỹ yêu nước, Bác kêu gọi các vị giúp sức vào công việc chống đói, động viên con cháu đắp đê ngăn nước lụt, bảo đảm sản xuất. Bác cũng căn dặn các đồng chí lãnh đạo tỉnh cố gắng lãnh đạo nhân dân củng cố chính quyền thật vững mạnh tạo điều kiện thực hiện các nhiệm vụ cấp bách.
Ngày 10/2/1947, khi về dự hội nghị điền chủ tại Nho Quan bằng uy tín của mình, Bác kêu gọi các điền chủ, thương gia ủng hộ kháng chiến, góp tiền, góp gạo và giúp đồng bào tản cư. Bác đã thăm Tu viện Châu Sơn, gặp Giám mục Lê Hữu Từ và cùng trao đổi, thỏa thuận một số vấn đề về những mâu thuẫn của đồng bào giáo, lương ở Bùi Chu và Phát Diệm.
Ngày 14/03/1959, Bác về kiểm tra chống hạn ở Ninh Bình, cùng bà con nông dân tham gia việc đồng áng. Bác đã xuống xã Khánh Cư, Yên Khánh thăm cánh đồng Chằm, cùng bà con nông dân xã Ninh Sơn tát nước tại chân núi Cánh Diều, xã Ninh Sơn, huyện Hoa Lư (nay thuộc Thành phố Ninh Bình). Dịp này Bác thăm và nói chuyện với hơn hai nghìn cán bộ, nhân dân Ninh Bình, Bác căn dặn: "Nhân dân ta đã anh dũng trong kháng chiến, cần phải anh dũng trong sản xuất, chúng ta cần phải thắng thiên tai".
Ngày 18/10/1959, Bác về dự Hội nghị sản xuất Đông xuân tỉnh Ninh Bình. Bác căn dặn cán bộ phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tuyên truyền, giải thích cho nhân dân hiểu về hai con đường làm ăn cá thể và tập thể. Bác động viên cán bộ, nhân dân Ninh Bình đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, trong nhân dân, đoàn kết lương giáo, chăm lo xây dựng phát triển Đảng và đoàn thanh niên thật vững chắc.
Ngày 20/07/1960, Bác về thăm Nông trường quốc doanh Đồng Giao, Tam Điệp. Bác đi thăm quan các đội sản xuất, nhà ăn, nhà trẻ, khu chăn nuôi lợn, bò... Bác gần gũi, giản dị, đầy tình yêu thương với cán bộ, công nhân viên. Đến đâu, Bác cũng vui vẻ hỏi chuyện anh em công nhân và căn dặn phải tích cực sản xuất, phải chọn những cây trồng thích hợp, phù hợp với điều kiện tự nhiên để nâng cao năng suất, xứng đáng với hình mẫu đầu tiên của kinh tế quốc doanh nông nghiệp XHCN.
Sau 50 năm thực hiện Di chúc của Bác và 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng bộ và quân dân tỉnh Ninh Bình đã có nhiều nỗ lực, năng động, sáng tạo, phát huy những tiềm năng, lợi thế của tỉnh, khơi dậy các nguồn lực và đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện. Những năm qua, Ninh Bình đã có hàng trăm tập thể, cá nhân tiêu biểu, xuất sắc thực hiện tốt việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Quy mô và tiềm lực kinh tế ngày càng lớn mạnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội, đô thị ngày được cải thiện rõ rệt. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được nâng cao.
Chương trình xây dựng nông thôn mới được các cấp, các ngành, địa phương quan tâm chỉ đạo tập trung và người dân đồng tình ủng hộ. Sau gần 10 năm triển khai thực hiện, đến cuối năm 2018 tỉnh có 90/119 xã về đích nông thôn mới. Trong đó có hai huyện Hoa Lư, Yên Khánh về đích nông thôn mới và Thành phố Tam Điệp hoàn thành nhiệm vụ nông thôn mới.
Ðảng bộ, quân và dân trong tỉnh đang phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI.
Ninh Bình quyết tâm vượt qua mọi khó khăn thách thức để thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “đoàn kết và dân chủ, một lòng một dạ phục vụ nhân dân”.